Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy - học môn Toán ở Lớp 1

Bậc tiểu học được coi là bậc học nền tảng của cả hệ thống giáo dục, trong đó lớp Một chính là phần móng của cái nền tảng ấy. Nền móng chắc thì mới đảm bảo cho phần kiến trúc bên trên được bền vững. Chính vì vậy việc nâng cao chất lượng dạy và học ở bậc tiểu học nói chung và ở lớp Một nói riêng luôn là vấn đề thời sự, nó được các cấp giáo dục từ Trung ương đến cơ sở hết sức quan tâm và đặt lên nhiệm vụ hàng đầu. Tuy nhiên, để nâng cao được chất lượng dạy và học thì ngoài việc áp dụng những quan điểm lý luận, những hướng dẫn mang tính định hướng về nội dung và phương pháp dạy - học của các nhà khoa học giáo dục, còn đòi hỏi người giáo viên trực tiếp đứng lớp luôn phải tự tìm tòi, nghiên cứu và sáng tạo để không ngừng cải tiến phương pháp dạy – học sao cho vừa phải phù hợp với đối tượng học sinh ơ ûtừng vùng miền, từng lớp, từng thời điểm…, vừa phải đạt được những yêu cầu chung được đặt ra về mặt kiến thức. Việc cải tiến phương pháp dạy - học càng đặc biệt cần thiết trong giai đoạn hiện nay, khi mà bậc tiểu học vừa hoàn thành xong việc triển khai chương trình sách giáo khoa mới và đang cần rất nhiều những đóng góp mang tính thực tiễn từ phía giáo viên trực tiếp đứng lớp để nội dung và phương pháp dạy – học theo chương trình mới được hoàn thiện ở mức cao nhất.
doc 18 trang phandinh 08/05/2024 1090
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy - học môn Toán ở Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy - học môn Toán ở Lớp 1

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy - học môn Toán ở Lớp 1
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN TOÁN LỚP 1
 Trước hết, chúng ta cùng xác định một cách tổng quát về mục tiêu dạy – học 
môn Toán ở lớp Một.
 Theo nghiên cứu của tôi về chương trình, sách giáo khoa mới thì tôi nhận 
thấy việc dạy – học Toán ở lớp Một nhằm giúp học sinh:
 - Bước đầu có một số kiến thức cơ bản, đơn giản, thiết thực về phép đếm các 
số tự nhiên trong phạm vi 100 và phép cộng , phép trừ không nhớ trong phạm vi 
100; về đo độ dài trong phạm vi 20cm; về tuần lễ, các ngày trong tuần lễ; về đọc 
đúng giờ trên mặt đồng hồ; về một số hình học ( đoạn thẳng, điểm, hình vuông, 
hình tam giác, hình tròn); về gải toán có lời văn
 - Hình thành và rèn luyện các kỹ năng thực hành: đọc, viết, đếm, so sánh các 
số trong phạmvi 100; cộng và trừ không nhớ các số trong phạm vi 100; đo và 
ước lượng độ dài đoạn thẳng ( với các số đo là số tự nhiên trong phạm vi 20cm); 
nhận biết hình vuông, hình tròn, hình tam giác, đoạn thẳng, điểm; vẽ đoạn thẳng 
có độ dài 10cm; giải một số toán đơn về cộng, trừ; bước đầu biết diễn đạt bằng 
lời, bằng ký hiệu một số nội dung đơn giản của bài học và bài thực hành; tập so 
sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá trong phạm vi những 
nội dung có nhiều quan hệ với đời sống thực tế của học sinh.
 - Học sinh chăm chỉ, tự tin, cẩn thận, ham hiểu biết và hứng thú trong học 
tập.
 Để học sinh có thể đạt được những yêu cầu đã đặt ra ở trên không phải là 
khó nhưng cũng hề dễ nếu giáo viên không có những cải tiến thích hợp về 
phương pháp dạy – học. Đó cũng chính là điều làm tôi luôn băn khoăn, trăn trở 
tìm cách để nâng cao chất lượng dạy – học, nâng dần trình độ tiếp thu của học 
sinh.
 Với thực tế kinh nghiệm của 18 năm liên tục được phân công giảng dạy ở 
lớp Một và sau 6 năm thực hiện chương trình sách giáo khoa mới, tôi đã có một 
số biện pháp hữu hiệu để khi học xong lớp Một các em phải biết:
 2 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN TOÁN LỚP 1
 - Giáo viên chưa thực sự nắm bắt được phương pháp giảng dạy mới để phát 
huy tính tích cực của học sinh.
 - Trình độ học sinh không đồng đều: có em đã được học qua lớp Mẫu giáo, 
có em chưa bao giờ biết đến mặt chữ, sáh vở trước khi vào lớp Một; có em chỉ 
dạy qua một lần, thậm chí chỉ nói sơ qua đã biết, nhưng cũng không ít học sinh 
giáo viên dạy đi dạy lại nhiều lần vẫn chưa hiểu hoặc hiểu rồi lại quên ngay.
II/ ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH:
 Năm học 2008-2009 tôi tiếp tục được phân công dạy lớp Một, lớp có 28 học 
sinh; trong đó có 14 học sinh nữ. Trong quá trình giảng dạy, tôi gặp một số khó 
khăn và thuận lợi sau:
1. Thuận lợi:
 - Bản thân tôi đã trực tiếp giảng dạy lớp Một được 19 năm nên ít nhiều cũng 
đã tích luỹ được một số kinh nghiệm dạy học, trong đó có kinh nghiệm dạy học 
môn Toán ở lớp Một; có khả năng tự làm một số đồ dùng dạy học đơn giản phục 
vụ cho việc dạy học.
 - Hoàn cảnh gia đình có nhiều thuận lợi cho công tác giảng dạy, nghiên cứu 
tài liệu: chồng tôi cũng là một đồng nghiệp và là lãnh đạo trong nhà trường nên 
anh đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong giảng dạy; các con tôi đã khôn lớn; kinh tế 
gia đình tạm ổn định
 - Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm đến công tác đổi mới phương 
pháp dạy – học nhằm nâng cao chất lượng mọi mặt của nhà trường.
 - Đa số cha mẹ học sinh lớp do tôi phụ trách quan tâm đến việc học của con 
cái nên đã mua sắm khá đầy đủ sách, vở và các đồ dùng học tập cho các em 
ngay từ đầu năm học; họ thường xuyên giữ liên lạc với giáo viên chủ nhiệm để 
nắm bắt tình hình học tập của con em mình.
 - Nhiều học sinh học tập tích cực.
 4 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN TOÁN LỚP 1
trình tìm tòi, phát hiện kiến thức, tôi chuẩn bị trước ở nhà các bài tập ( dựa vào 
vở Bài tập Toán) có yêu cầu kiến thức từ dễ đến khó. Các bài tập khó dành cho 
học sinh khá, giỏi; các bài tập dễ dành cho học sinh trung bình trở xuống nhằm 
tạo hứng thú cho các em trong từng tiết học để các em chủ động tiếp thu kiến 
thức.
 Trong năm học đầu tiên khi áp dụng thử nghiệm đề tài, sau khi phân loại học 
sinh và chuẩn bị được một số lượng bài tập đủ để dạy cho ít nhất 1 chương (các 
chương còn lại tôi sẽ tiến hành soạn tiếp trong những khoảng thời gian rảnh rỗi 
và những năm học tiếp theo sau đó tôi chỉ cần điều chỉnh, bổ sung thêm cho phù 
hợp với đối tượng học sinh của từng năm học), tôi tiến hành các biện pháp cụ 
thể để áp dụng đề tài.
B- BIỆN PHÁP CỤ THỂ:
 Trước hết, tôi tranh thủ trong cuộc họp phụ huynh học sinh đầu năm học để 
gặp gỡ, yêu cầu họ mua sắm cho học sinh đầy đủ các dụng cụ cần thiết tối thiểu 
cho việc học tập tất cả các môn học. Riêng môn Toán, ngoài các dụng cụ, đồ 
dùng học tập cần thiết như sách giáo khoa, bộ ghép Toán, tôi yêu cầu phụ 
huynh học sinh trang bị thêm cho mỗi em 1 cuốn vở ô li để học sinh làm lại các 
bài tập bị sai hoặc làm thêm một số bài mà các em chưa thông thạo về kiến thức 
(bài tập do giáo viên biên soạn). Việc làm này sẽ có tác dụng củng cố kiến thức 
cho học sinh và giúp các em nhớ lâu hơn kiến thức mình vừa phát hiêïn được, 
đồng thời đây cũng là cách để rèn kỹ năng viết cho học sinh.
 Khi học sinh đã có đủ các dụng cụ, đồ dùng học tập cần thiết, tôi bắt đầu áp 
dụng đề tài cụ thể cho từng dạng Toán như sau:
1. Dạy toán về nhiều hơn, ít hơn:
 Với dạng toán về nhiều hơn, ít hơn học sinh phải nắm thật kỹ để các em 
chuyển sang học về dấu lớn hơn, bé hơn được dễ dàng. Đối vơí học sinh khá, 
giỏi, các em tiếp thu bài rất nhanh vì đó chỉ là những kiến thức đơn giản các em 
 6 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN TOÁN LỚP 1
 Hướng dẫn học sinh so sánh các số trong phạm vi 10:
 Đây là hai dấu bé, lớn chỉ sự quan hệ giữa các số mà học sinh rất dễ nhầm 
lẫn, không chỉ học sinh yếu, kém nhầm lẫn mà ngay cả học sinh khá, giỏi cũng 
có thể sai khi tính toán vội vàng. Để hạn chế điều này, tôi giúp học sinh phân 
biệt bằng cách co cánh tay của mình khi hướng dẫn các em điền dấu.
a) Với dấu bé hơn (<):
Ví dụ: 24
- Giáo viên nêu câu hỏi: 2 như thế nào so với 4?
- Học sinh trả lời: 2 bé hơn 4.
- Giáo viên ghi dấu bé hơn vào chỗ chấm (3 < 4) và cho học sinh nhận xét: Dấu 
bé hơn, mũi nhọn quay về bên trái giống như tay trái đang co lại chống vào 
hông. 
 - Cho học sinh lên bảng thực hành chống tay trái vào hông trước lớp cho 
các bạn cùng nhận xét xem có đúng như kết luận đã nêu không (học sinh đứng 
quay mặt vào bảng). Tiếp tục, tôi tiến hành tương tự với một vài ví dụ khác như: 
13; 45;
b) Với dấu lớn hơn (>):
Ví dụ: 63.
 Tương tự ví dụ trên, giáo viên cũng nêu câu hỏi và rút ra nhận xét: Dấu lớn 
hơn giống như tay phải co lại chống vào hông. Sau đó, cho học sinh thực hành, 
nêu nhận xét.
 Cuối tiết học, tôi tổ chức cho học sinh thi đua bằng hình thức trò chơi nhằm 
củng cố và khắc sâu kiến thức của bài học. Sau đây là một ví dụ:
 8 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN TOÁN LỚP 1
 - Giáo viên liên tục thay đổi số lượng học sinh nữ trong mỗi nhóm trên bảng 
để học sinh có thể so sánh được nhiều giá trị giữa 2 số và cũng là để nhiều học 
sinh cùng được tham gia vào trò chơi.
 Với cách làm như trên, học sinh vừa dễ dàng nhớ được đặc điểm của dấu > 
và dấu <, vừa dễ so sánh được giá trị của các số có 1 chữ số; đây chính là tiền đề 
để các em có thể dễ dàng so sánh giá trị các số có 2 chữ số sau này.
 Hướng dẫn học sinh so sánh các số có hai chữ số:
 Để hướng dẫn học sinh dễ dàng so sánh các số có hai chữ số, tôi áp dụng 
phương pháp phân tích các số thành từng hàng rồi cho học sinh so sánh các số 
trong cùng hàng; từ đó rút ra kết luận so sánh giá trị của hai số.
 10 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN TOÁN LỚP 1
 + Bài này có mấy phần? Gồm những phần nào? ( bài có hai phần, phần 
đứng trước dấu chấm và phần đứng sau dấu chấm).
 + Em có thể tính phần nào trước? (Tính 2 + 4 trước). 2 + 4 bằng mấy? ( 2 
+ 4 = 6).
 + Em dùng bút chì ghi số 6 phía trên (hoặc dưới) phép tính 2 + 4.
 + 7 như thế nào so với 6? (7 lớn hơn 6).
 + Em điền: 7 > 2 + 4.
Ví dụ 2: 8 - 23 + 4.
 Tương tự ví dụ 1, giáo viên cũng nêu câu hỏi gợi ý để học sinh nhận biết 
được bài toán này có hai phần. Sau đó giáo viên hướng dẫn học sinh tính từng 
phần, ghi kết quả bằng bút chì phía trên (hoặc dưới) mỗi phần; so sánh hai kết 
quả rồi từ đó kết luận và điền dấu thích hợp (8 – 2 < 3 + 4).
Ví dụ 3: Bài tập số 2; 3 sách giáo khoa Toán lớp 1 trang 143.
 Bài 2: Khoanh tròn vào số lớn nhất:
 a) 72; 68; 80. b) 91; 87; 69.
 c) 97; 94; 92. d) 45; 40; 48.
 Bài 3: Khoanh tròn vào số bé nhất:
 a) 38; 48; 18. b) 76; 78; 75.
 c) 60; 79; 61. d) 79; 60; 81.
 Các bài tập này rất khó đối với học sinh trung bình trở xuống, do đó tôi phải 
hướng dẫn kỹ từng mục của mỗi bài.
- Mục a, b: Hướng dẫn học sinh so sánh từng chục để tìm được số lớn nhất (bé 
nhất).
 12 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN TOÁN LỚP 1
 5 +  = 8. 9 -  = 4.
 Đối với các lớp trên, dạng toán này có qui tắc cụ thể. Ơû lớp Một, các em tự 
nhẩm rồi điền vào chỗ chấm. Vì vậy, muốn làm đúng dạng toán này, các em 
phải thuộc kỹ các phép cộng, trừ trong phạm vi 10. Do đó, khi dạy phép cộng và 
trừ từ 2 đến 10, tôi chú ý rèn cho học sinh kỹ năng thuộc và nhớ kỹ tất cả các 
phép tính. Đối với những học sinh yếu, kém, tôi sử dụng các hình thức dạy học 
trực quan, gợi mở, dạy học theo nhóm ở lớp, nhóm ở nhà và thường xuyên kiểm 
tra để các em có thể thuộc và nhớ được các phép tính theo yêu cầu đã nêu.
5. Dạng điền số vào ô trống:
 Để tất cả học sinh có thể làm được và làm đúng dạng toán này, tôi phát huy 
tối đa ưu thế của phương pháp gợi mở, phân tích – tổng hợp. Cụ thể như sau:
Ví dụ: 3 + 5 = 6 + 
- GV hỏi: 
 + Bài toán này có mấy phần? Đó là những phần nào? ( Bài toán có hai 
phần, phần đứng trước dấu bằng và phần đứng sau dấu bằng).
 + Chúng ta có thể tính được phần nào trước? (Tính phần đứng trước dấu 
bằng).
 + Phần đứng trước dấu bằng được tính như thế nào? (3 + 5 = 8).
 + Phần đứng sau dấu bằng đã có 6, vậy chúng ta cộng thêm mấy nữa để 
bằng 8? (Cộng thêm 2).
 + Vậy 3 + 5 = 6 + mấy? ( 3 + 5 = 6 + 2).
 Trong các tiết Toán tự soạn sau đó, tôi sẽ đưa thêm một số bài tập tự soạn ở 
dạng này vào bài để các em được luyện tập nhằm rèn luyện kỹ năng và củng cố, 
khắc sâu kiến thức.
 14

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_d.doc