Báo cáo Sáng kiến Vai trò giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh cuối cấp THPT

Giáo viên chủ nhiệm(GVCN) lớp là người chịu trách nhiệm thực hiện mọi quyết định quản lý của hiệu trưởng đối với lớp và các thành viên trong lớp. GVCN lớp là người vạch kế hoạch, tổ chức cho lớp mình thực hiện các chủ đề theo kế hoạch và theo dõi, đánh giá việc thực hiện của các học sinh(HS). GVCN lớp phải biết phối hợp với các GV bộ môn, chỉ huy quản lý học sinh trong lớp học tập, lao động, công tác. Chủ nhiệm cũng là người phối hợp với các tổ chức, đoàn thể trong trường trong đó quan hệ nhiều ở cấp THPT là đoàn trường, chi đoàn GV, hội CMHS, để làm tốt công tác dạy- học- giáo dục HS trong lớp phụ trách.

Thế mà, trong thực tế có những quan niệm sai lầm trong nhận thức về chức vụ giáo viên chủ nhiệm lớp chưa tương xứng với tầm quan trọng của chức vụ này chưa đúng với các văn bản luật cũng như các văn bản quản lí giáo dục quy định và thậm chí có cả những phương pháp giáo dục lỗi thời…Ở đâu đó, còn tồn tại chuyện học sinh đánh thầy cô giáo chủ nhiệm của mình; giáo viên chủ nhiệm lớp nóng nảy, thô bạo đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng như đuổi hàng chục học sinh ra khỏi giờ học, rút dép đánh học trò trong lớp, cho cán bộ lớp dùng roi dâu đánh bạn học hàng giờ, bắt học trò liếm ghế, bắt học sinh đi bằng đầu gối 100 vòng quanh lớp, bắt viết 100 bản tự kiểm điểm v.v... Ngược lại có những giáo viên chủ nhiệm lớp quá dễ dãi, buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm với lớp, với chức năng đã được giao, để cho học sinh tự do hư đốn v.v...

doc 23 trang phandinh 08/05/2024 1510
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo Sáng kiến Vai trò giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh cuối cấp THPT", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo Sáng kiến Vai trò giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh cuối cấp THPT

Báo cáo Sáng kiến Vai trò giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh cuối cấp THPT
 Trường THPT Phạm Phú Thứ - Tổ Vật Lí - GV. Lê Thái Trung
II. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
 1. Mục tiêu.
 Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng vai trò của GVCN lớp trong 
 công tác giáo dục đạo đức HS để đề ra những giải pháp hợp lý nhằm nâng cao 
 chất lượng giáo dục đạo đức HS và góp phần hoàn thiện nhân cách HS ở trường 
 THPT.
 2. Nhiệm vụ.
 - Nghiên cứu lý luận về các GVCN lớp đã thể hiện vai trò của mình như thế 
 nào trong công tác giáo dục đạo đức HS và đã đạt kết quả như thế nào?
 - Đề ra những giải pháp hiệu quả và cụ thể việc áp dụng nhằm nâng cao 
 chất lượng giáo dục đạo đức HS trong trường THPT.
 - Tôi đã rút ra được những bài học kinh nghiệm từ việc trải nghiệm thực tế.
III. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 1. Khách thể.
 - Thực trạng và giải pháp cho vai trò của GVCN lớp trong công tác giáo 
 dục đạo đức HS.
 2. Đối tượng. 
 - Nghiên cứu quá trình chủ nhiệm lớp.
 3. Phạm vi nghiên cứu.
 - Do tuổi đời, tuổi nghề còn ít và thời gian nghiên cứu có hạn nên tôi chỉ 
 vận dụng ở lớp 12/5 trường THPT Phạm Phú Thứ - Đà Nẵng năm học 
 2006-2007.
 4. Giả thuyết khoa học.
 - Việc nghiên cứu trên nếu áp dụng đại trà thì sẽ góp phần nâng cao hiệu 
 quả giáo dục toàn diện trong trường THPT.
 2 Trường THPT Phạm Phú Thứ - Tổ Vật Lí - GV. Lê Thái Trung
 PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Vài nét về vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp trong trường THPT
 Trước hết, ta cần xác định rõ vai trò của GVCN lớp. Nhưng thực tế nhiều người 
đã coi nhẹ và lẫn lộn họ với các giáo viên bộ môn(GVBM) khác. Ví dụ: hàng năm 
không làm nhiệm vụ bổ nhiệm chức vụ chủ nhiệm lớp, không công bố quyết định đó 
trước toàn trường, trước hội phụ huynh của trường, hiện nay gọi là ban đại diện hội 
CMHS mà chỉ ghi ở thời khóa biểu như mọi GV bình thường khác có giờ dạy. Đáng 
lẽ phải làm đúng quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm tuỳ theo thành tích hoặc 
sai phạm mà họ mắc phải. Về mặt đánh giá xếp loại GV, nhiều cán bộ quản lý chỉ coi 
trọng chuyên môn mà chưa coi trọng hiệu quả công tác quản lý lớp ở GVCN, lại có 
biểu hiện lệch lạc khi lớp có khuyết điểm thì quy trách nhiệm cho họ, khi lớp có 
thành tích thì lẫn lộn giữa thành tích đoàn thể với thành tích chính quyền, cụ thể là 
công của các cán bộ ngành dọc chứ chưa hẳn là của tập thể lớp do GVCN lãnh đạo. 
Tuy vậy cũng cần phải thấy trong thực tế có những GVCN yếu, vai trò của mình mờ 
nhạt nên dấu ấn của công tác đoàn thể sâu đậm hơn, vai trò của chính quyền bị lấn át, 
từ đó càng tạo ra sự nhìn nhận thiên lệch. Có nhiều GVCN lớp đặc biệt là chủ nhiệm 
trẻ chưa biết mình có một quyền hạn nên chưa ai dám làm là đi dự giờ các GVBM 
trong lớp khi mình thấy cần. GVCN được xếp loại học sinh, được thi hành kỉ luật học 
sinh theo quy định, được hưởng giờ công tác theo định mức quy định, có chăng loại 
sổ sách làm việc pháp quy trong hệ thống sổ sách của nhà trường. Từ đó nếu có nhiều 
chủ nhiệm lớp trong trường có năng lực và bản lĩnh thì công cuộc giáo dục sẽ đạt 
được nhiều thành tựu đáng kể.
II. Những yếu tố của GVCN lớp
 1. Tố chất để làm nên một GVCN lớp tốt.
 Vì GVCN là cán bộ quản lý lớp cho nên người dạy giỏi và người chủ 
 nhiệm giỏi không nhất thiết là một. Có đồng thuận, có lệch pha trong thực tế là 
 bình thường. Tố chất quan trọng của GVCN là tố chất của một con người hành 
 4 Trường THPT Phạm Phú Thứ - Tổ Vật Lí - GV. Lê Thái Trung
 lớp học, thầy cô còn phải đóng vai người anh, người chị mà các em có thể tin 
 tưởng, nhờ cậy được. Qua đó, các em sẽ biết sống nhẫn nại, kiên trì và giàu lòng 
 nhân ái.
III. Đặc điểm lớp 12/5
 Năm học 2004 - 2005, lớp 12/5 chính là lớp 10/6 của trường THPT Phạm Phú 
Thứ. Đây là lớp học có tỉ lệ học sinh yếu kém về học lực và hạnh kiểm khá cao(hơn 
10 em thi lại và rèn luyện trong hè). Lớp xếp vị thứ 24/24 lớp trong tổng kết thi đua 
cuối năm. Nhờ sự giúp đỡ, quan tâm của BGH và GVCN, GVBM rèn luyện thêm cho 
các em trong hè 2005 nên kết quả lên lớp được 9 em.
 Năm học 2005-2006, do đặc điểm của trường về phòng học nên lớp 10/6 có sự 
thay đổi. Một số em chuyển sang lớp khác, trường khác nên lớp chuyển thành lớp 
11/5. Kết quả năm học này khả quan hơn(13/24) song nề nếp học sinh vẫn chưa đi 
vào nghiêm túc thật sự. Chính vì vậy, đến năm học 2006-2207 lớp 12/5 bên cạnh 
những thuận lợi còn có rất nhiều khó khăn.
 1. Thuận lợi:
 - Bản thân tôi đã chủ nhiệm lớp năm 11 nên năm học này giữa giáo viên và 
 học sinh đã phần nào hiểu nhau.
 - Đa số HS ngoan hiền, có ý thức học tập và rèn luyện đạo đức.
 - HS trong lớp có ý thức xây dựng tập thể lớp .
 - Giữa GVCN, phụ huynh học sinh và BGH luôn phối hpợ chặt chẽ trong 
 công tác giáo dục.
 2. Khó khăn:
 - Đa số HS hoàn cảnh gia đình khó khăn thuộc diện xóa đói giảm nghèo:
 Phước Bảo, Minh Mãi, Minh Tâm, Văn Trạng
 - Nhà ở xa trường học: Lộng Gió(Đại La), Kim Thảo(Đại La),Cẩm 
 Nhung(Hòa Trung - Hòa Ninh), Tuyết Nhung(Hòa Liên); Phước Vĩ(Đông 
 Sơn - Hòa Ninh)
 - Một số học sinh thiếu thốn tình cảm(chỉ ở với mẹ hoặc bố, cha mẹ làm ăn 
 xa, mồ côi): H.D, K.T
 6 Trường THPT Phạm Phú Thứ - Tổ Vật Lí - GV. Lê Thái Trung
 + Ðôn đốc sinh viên đi học đầy đủ, đúng giờ, đảm bảo học tập 
 nghiêm túc;
 + Ðiểm danh, ghi sổ đầu bài đầy đủ, kịp thời;
 + Lập danh sách HS thuộc diện đối tượng ưu tiên, hoàn cảnh khó 
 khăn, báo cáo với giáo viên chủ nhiệm; 
 + Tổ chức và quản lý HS thực hiện lao động XHCN và các hoạt 
 động liên quan đến sinh hoạt đời sống vật chất và tinh thần của 
 lớp;
 + Tổ chức động viên, thăm hỏi những sinh viên có hoàn cảnh khó 
 khăn, ốm đau, tai nạn...
 - Nhiệm vụ của Bí thư Đoàn :
 + Nắm bắt và tiếp thu những thông báo, chỉ thị của Đoàn trường 
 để kịp thời triển khai cho Đoàn viên trong chi đoàn thực hiện đầy 
 đủ;
 + Thực hiện các phong trào ủng hộ, quyên góp do huyện Đoàn 
 và Đoàn trường phát động.
 - Nhiệm vụ của Ban cán sự bộ môn:
 + Thực hiện và duy trì sinh hoạt 15 phút đầu giờ theo chủ đề lớp 
 đã chọn.
 2. Lập sơ đồ tổ chức lớp học.
 a) Căn cứ để lập sơ đồ lớp:
 - Căn cứ vào học lực của HS: HS yếu kém, chậm tiến ngồi trước; HS 
 khá giỏi ngồi sau.
 - Căn cứ vào tình trạng sức khỏe của HS: HS thấp trước, cao sau; HS 
 mắt yếu ngồi gần bảng.
 - Căn cứ vào nhiệm vụ của ban cán sự lớp: ngồi giữa và sau.
 b) Sơ đồ tổ chức lớp học của lớp 12/5 như sau :
 (Xem trang 09)
 * Chú ý : trong quá trình lập sơ đồ, có thể thay đổi một số vị trí nếu thấy 
 không phù hợp. 2-4 sơ đồ lớp/1 năm học.
 8 Trường THPT Phạm Phú Thứ - Tổ Vật Lí - GV. Lê Thái Trung
 3. Vai trò của GVCN trong việc kết hợp nhà trường - gia đình - xã hội.
 a) Cơ sở lí luận:
 Vai trò nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục phẩm chất chính 
 trị, đạo đức, lối sống cho học sinh.
 Các phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của con người nói chung, 
 HS nói riêng được hình thành và phát triển trong các môi trường: gia đình, 
 nhà trường và xã hội. Lúc sơ sinh vai trò của gia đình là chủ đạo, tuổi học 
 mầm non gia đình và nhà trường góp phần quyết định, tuổi học phổ thông 
 (từ tiểu học tới trung học) càng lớn vai trò của nhà trường, gia đình và xã 
 hội càng cân đối. Để làm tốt việc giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối 
 sống cho HS THPT phải kết hợp chặt chẽ với gia đình. 
 Nhà trường, gia đình và xã hội có vai trò giáo dục khác nhau đối với 
 sự hình thành và phát triển phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của HS. 
 Trong mối quan hệ đó thì nhà trường được xem là trung tâm, chủ động, 
 định hướng trong việc phối hợp với gia đình và xã hội. Nhà trường là môi 
 trường giáo dục toàn diện nhất, là cơ quan nhà nước thực hiện chức năng 
 giáo dục chuyên nghiệp nhất nên nhà trường nhà trường là lực lượng giáo 
 dục có hiệu quả nhất, hội tụ đủ những yếu tố cần thiết để có thể huy động 
 sức mạnh giáo dục từ phía gia đình và xã hội.
 Có một thực trạng tồn tại là các tệ nạn xã hội như đề đóm, cờ bạc, 
 nghiện hút v.v  cũng xuất hiện, làm đảo lộn vẩn đục môi trường giáo dục 
 đạo đức, không ngừng ảnh hưởng đến đạo đức, nhân cách và lối sống của 
 HS. Nhà trường dù là một pháo đài vững chắc nhưng vẫn có thể bị "tập 
 kích" từ phía ngoài. Nhà trường không phải là một ốc đảo tách khỏi xã hội, 
 tách xa thực tiễn. Thực tiễn cuộc sống, nhất là cuộc sống xã hội đang có 
 các nhân tố của kinh tế thị trường tác động đến nhà trường, có lúc nhẹ 
 nhàng, có khi sôi động dồn dập. Xã hội ô nhiễm, luồng văn hoá ngoại lai, 
 đồi truỵ, bạo lực... len lỏi vào mọi tầng lớp nhân dân đã rất dễ gây ấn tượng 
 và phản ảnh sâu đậm đối với trẻ.
 10 Trường THPT Phạm Phú Thứ - Tổ Vật Lí - GV. Lê Thái Trung
 + Lâu nay, chỉ thường nghe cụm từ “học sinh cá biệt” - ám chỉ 
 những đứa trẻ có vẻ khác thường, khó dạy, thậm chí hư hỏng. 
 Trong trường, HS dạng cá biệt về đạo đức thường quậy phá, đánh 
 lộn, trộm cắp, nổi bật vai trò thủ lĩnh, lập băng nhóm... nhẹ hơn một 
 chút là dạng nữa về học tập, HS không học bài, làm bài, HS chậm 
 hiểu và rất mau quên... Và HS bị gọi "cá biệt" là HS có khiếm 
 khuyết về tâm lý, do HS bị ảnh hưởng từ trong gia đình của HS, đa 
 số chúng ta khi thấy hành động khác thường, không ngoan của HS 
 thì cho là cá biệt và xử lý trên hành động do HS gây ra mà quên là 
 cần phải tìm cho ra nguyên nhân. Đôi khi sự cá biệt của những HS 
 ấy lại do từ cha mẹ chúng...cuộc sống vợ chồng không hoà thuận, từ 
 đó có ảnh hưởng đến đặc điểm tâm sinh lý của HS. 
 + Không phải tự nhiên mà trẻ trở thành "cá biệt", đó là hậu quả của 
 các vết thương tâm lý mà vô tình người lớn chúng ta đã gieo vào 
 đầu óc non nớt của trẻ lúc sống trong môi trường gia đình cũng như 
 ở trường học.
 + Gia đình khó khăn; một số học sinh bị bệnh và điều đáng lưu tâm 
 là một số học sinh ham chơi, học kém, chán học, bỏ học...
 - Giải pháp:
 + Trước hết, chúng ta hãy thương yêu HS, cố gắng để giúp HS vượt 
 qua những biến cố, những vấn đề đã xảy trong quá trình sống và nó 
 đã trở thành vết thương tâm lý khó phai mờ trong tâm hồn HS. 
 + HS cá biệt thì cần được sự giúp đỡ trong học hành, lối sống.
 + GVCN cần có nề nếp kỷ cương để HS tự nhận thức, tự khép mình 
 trong những nội quy, quy chế chặt chẽ nhưng luôn được dân chủ 
 bàn bạc, trao đổi, thỏa sức đóng góp. Tuân theo tập thể và cống 
 hiến cho tập thể; luôn gắn lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, chính là 
 một trong những chuẩn mực, điều kiện để giáo dục HS. Trong 
 trường cần có dân chủ đối với mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau 
 thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông 
 suốt thì hỏi, bàn cho thông suốt. Dân chủ nhưng trò phải kính Thầy, 
 12

File đính kèm:

  • docbao_cao_sang_kien_vai_tro_giao_vien_chu_nhiem_lop_trong_viec.doc